Tại sao sức khỏe đang định hình lại xu hướng tiêu dùng toàn cầu
Nền kinh tế chăm sóc sức khỏe đạt 6,3 nghìn tỷ đô la Mỹ vào năm 2023, vượt qua cả CNTT và thể thao. Khám phá những yếu tố thúc đẩy sự bùng nổ này — từ công nghệ đến lối sống — và cuộc tranh luận xoay quanh khoa học và uy tín trong lĩnh vực này.
Sức khỏe là một động lực không thể thiếu trong nền kinh tế toàn cầu. Quy mô thị trường của lĩnh vực này lớn hơn cả nền kinh tế xanh, công nghệ thông tin, thể thao và dược phẩm, theo báo cáo của Viện Sức khỏe Toàn cầu (GWI).
Việc đo lường nó rất phức tạp vì nó chồng chéo hoặc bao gồm 11 lĩnh vực: y học cổ truyền và y học bổ sung; y tế công cộng, phòng ngừa và y học cá nhân hóa; ăn uống lành mạnh, dinh dưỡng và giảm cân; hoạt động thể chất; chăm sóc cá nhân và làm đẹp; sức khỏe tinh thần; du lịch chăm sóc sức khỏe; bất động sản chăm sóc sức khỏe; sức khỏe nơi làm việc; suối nước nóng và khoáng chất, và spa.
GWI ước tính giá trị của ngành chăm sóc sức khỏe toàn cầu là 6,3 nghìn tỷ đô la Mỹ vào năm 2023, chiếm 6,03% GDP toàn cầu, với dự báo tăng trưởng là 8,9 nghìn tỷ đô la Mỹ đến năm 2028.
Sự phát triển của ngành chăm sóc sức khỏe được thúc đẩy bởi nhiều động lực, bao gồm sự gia tăng không thể tránh khỏi của số hóa và sức khỏe kỹ thuật số, cũng như phương tiện truyền thông xã hội — đặc biệt là Instagram — với nguồn cung cấp vô tận những người có ảnh hưởng trong lĩnh vực chăm sóc sức khỏe.
Tuy nhiên, điều khiến nhiều người bận tâm nhất chính là đại dịch toàn cầu, khiến một số bộ phận của ngành chăm sóc sức khỏe phải đóng cửa trước khi hầu hết phục hồi mạnh mẽ hơn bao giờ hết.
Thêm vào đó là nhu cầu sống lâu của dân số già và nhu cầu kiểm soát chi tiêu cho y tế, kết quả là một bối cảnh vô cùng phức tạp.
Mục đích là đúng
Định nghĩa về “sức khỏe” rất đa dạng. GWI mô tả nó là “việc chủ động theo đuổi các hoạt động, lựa chọn và lối sống dẫn đến trạng thái sức khỏe toàn diện”, trong khi đặc điểm chính của sức khỏe thường là sự theo đuổi mang tính cá nhân.
Cho dù là nhâm nhi nước ép xanh, đến phòng tập thể dục, dành thời gian trong phòng tăng áp hay đặt chuyến du ngoạn chăm sóc sức khỏe mới nhất, động lực để theo đuổi sức khỏe thường hướng đến mong muốn tối ưu hóa bản thân, phòng ngừa hoặc “trở thành phiên bản tốt nhất của chính mình”.
Bất kể lý do là gì, kết quả lý tưởng của các hoạt động chăm sóc sức khỏe là kết quả sức khỏe tích cực, đây là điều tốt cho các ngành chăm sóc sức khỏe đang quá tải.
“Mô hình giải quyết hậu quả truyền thống trong một hệ thống y tế tập trung sâu vào việc điều trị người bệnh là không bền vững.”
Sabine Bennett, người đứng đầu bộ phận sức khỏe kỹ thuật số của Deloitte Australia, nhận thấy các cuộc trò chuyện với khách hàng của cô ngày càng chuyển sang chủ đề phòng ngừa bệnh tật và chăm sóc sức khỏe.
“ Mô hình “giải quyết hậu quả” truyền thống trong một hệ thống y tế vốn chỉ tập trung vào điều trị người bệnh là không bền vững”, bà chỉ ra. Trong số vô số thách thức của hệ thống này là bệnh mãn tính gia tăng và chi phí, thiếu hụt cơ sở hạ tầng, công bằng và khả năng tiếp cận.
Bennett lưu ý rằng trong khi những đổi mới như chăm sóc sức khỏe ảo và giải pháp y tế kỹ thuật số đóng vai trò quan trọng trong việc cải thiện hệ thống y tế và sức khỏe cộng đồng, thì “cách tiếp cận có tác động lớn nhất là tránh hoàn toàn bệnh tật”.
Mặc dù phức tạp nhưng bà cho biết “việc chuyển trọng tâm sang các biện pháp chăm sóc sức khỏe chủ động là điều cần thiết”.
Bennett báo cáo rằng “Một thế hệ người tiêu dùng mới ngày càng đầu tư nhiều hơn vào sức khỏe và hạnh phúc của bản thân, tích cực tìm kiếm các giải pháp chăm sóc sức khỏe mới”, đồng thời lưu ý rằng bà thấy các công ty bảo hiểm y tế tư nhân đang dẫn đầu xu hướng này.
Khu vực công cũng đang dần nhận thức được ý tưởng này. Ví dụ, Chính phủ Singapore có một ứng dụng di động khuyến khích người dân hướng tới những thói quen lành mạnh thông qua các nhiệm vụ sức khỏe được tuyển chọn kỹ lưỡng.
Công nghệ là chìa khóa
Một số khía cạnh của sức khỏe dựa trên các phương pháp cổ xưa, nhưng công nghệ mới là yếu tố then chốt. Các thương hiệu lớn như Apple, Samsung, Google và Garmin đang đầu tư mạnh mẽ, mang sức khỏe đến gần người tiêu dùng với điện thoại thông minh, đồng hồ và nhẫn cho phép người dùng thu thập dữ liệu sức khỏe.
Bennett tin rằng công nghệ mang lại lợi ích cho mọi lĩnh vực chăm sóc sức khỏe, từ việc tiếp cận và chia sẻ thông tin đến việc đơn giản hóa quy trình tìm kiếm và đặt lịch với các nhà cung cấp dịch vụ phù hợp. Bà lưu ý: “Game hóa và ‘kỹ thuật thúc đẩy’ cũng đang được sử dụng để giúp mọi người duy trì động lực đạt được mục tiêu của mình”.
Bennett cho biết sự phát triển của trí tuệ nhân tạo (AI) không chỉ giúp tiếp cận thông tin dễ dàng hơn mà còn mang lại những gì có thể được coi là “lời khuyên cá nhân”.
Cô thách thức tất cả người dùng đánh giá xem nguồn thông tin có uy tín hay không hoặc có nên tham khảo ý kiến chuyên gia y tế hay không.
Không gian kích hoạt
Bất động sản chăm sóc sức khỏe là lĩnh vực chăm sóc sức khỏe phát triển nhanh nhất, với tốc độ tăng trưởng dự kiến là 15,8% mỗi năm từ năm 2023 đến năm 2028, theo báo cáo của GWI .
Bà Su-Fern Tan, Giám đốc ESG khu vực Thái Bình Dương của CBRE — một trong những công ty dịch vụ và đầu tư bất động sản thương mại lớn nhất thế giới — cho biết các chủ sở hữu bất động sản thương mại đang thu hút khách thuê cao cấp bằng các tiện ích chăm sóc sức khỏe. Ngoài ra, việc ngày càng chú trọng đến yếu tố xã hội của ESG đang đáp ứng nhu cầu của nhà đầu tư và thúc đẩy nhu cầu thuê, bà nói.
“Điều tạo nên một khoản đầu tư tốt là một tòa nhà chăm sóc tốt cho cư dân và cộng đồng xung quanh. Tỷ lệ trống sẽ thấp hơn nhiều khi bất động sản đi kèm với các tiện ích chăm sóc sức khỏe tuyệt vời — và lợi nhuận cho thuê có thể cao hơn.” Hơn nữa, có nghiên cứu cho thấy sức khỏe nơi làm việc được cải thiện có liên quan đến năng suất làm việc tốt hơn.
“Phụ nữ cũng là đối tượng dễ tiếp nhận, vì những lo lắng về sức khỏe của họ thường bị bỏ qua trong các hệ thống y tế chính thức. Họ cảm thấy không được lắng nghe.”
Tuy nhiên, bất động sản chăm sóc sức khỏe ngày nay ít tập trung vào phòng thiền và không gian tập thể dục mà chú trọng hơn vào tiện nghi và cảm nhận của con người về các tòa nhà, Tan nói. “Đặc biệt là khi chúng ta dành 90% thời gian ở trong nhà.”
Tan cho biết, mặc dù có một khía cạnh bắt buộc đối với sự thoải mái của người ở – kiểm soát nhiệt độ, ánh sáng tốt, âm thanh và chất lượng không khí – nhưng ngày nay, sức khỏe nằm ở sự “kích hoạt” bên trong tòa nhà và môi trường xung quanh.
Các lớp thể dục được tài trợ toàn phần, chợ nông sản và quán cà phê lành mạnh có thể là những điểm đến được bao gồm, và khu phát triển Barangaroo của Sydney là một ví dụ điển hình.
Sức sống mới của du lịch
Trong lĩnh vực du lịch toàn cầu năng động, COVID-19 đã tác động đáng kể đến việc mọi người coi trọng sức khỏe của mình, Katherine Droga, chủ tịch Sáng kiến Du lịch Sức khỏe của GWI, xác nhận .
Droga cho biết : “Căng thẳng và sức khỏe tinh thần là những động lực chính thúc đẩy nhu cầu nghỉ ngơi, thư giãn của người tiêu dùng, một cách để thoát khỏi công việc hoặc hòa mình vào thiên nhiên”. Việc ngày càng nhiều người quan tâm đến sức khỏe tinh thần đã thúc đẩy ngày càng nhiều người tìm đến các chuyến đi hoặc trải nghiệm chăm sóc sức khỏe.
Phân khúc lớn nhất của du lịch chăm sóc sức khỏe, chiếm 85% số chuyến đi và chi tiêu, là thị trường mà du khách chủ động thêm trải nghiệm chăm sóc sức khỏe vào các chuyến đi hoặc kỳ nghỉ. Droga chỉ ra: “Điều này cho thấy chăm sóc sức khỏe đang phát triển từ một phân khúc hẹp hoặc ngách thành một phân khúc được nhiều người đón nhận”.
Du khách đại chúng trên toàn cầu đang sẵn sàng thử nghiệm các hoạt động chăm sóc sức khỏe từng chỉ dành cho một nhóm nhỏ, dù đó là tắm rừng hay lễ hội ca cao, bà cho biết. Đây là tin tốt cho các khách sạn và các nhà cung cấp dịch vụ lưu trú khác, những người đang nắm bắt cơ hội để bổ sung các yếu tố chăm sóc sức khỏe và phát triển doanh nghiệp của mình.
Mỗi quốc gia có những đề xuất du lịch chăm sóc sức khỏe khác nhau, nhưng nhu cầu toàn cầu về các nghi lễ tắm hơi và xông hơi, bao gồm cả tắm nước lạnh, tắm nước nóng hoặc tắm khoáng trong bối cảnh chung hoặc riêng, đều rất cao.
Úc được xếp hạng là nền kinh tế chăm sóc sức khỏe lớn thứ 11 theo dữ liệu mới nhất của GWI.
Droga đang theo dõi sự gia tăng quan tâm đến các bằng chứng khoa học như xét nghiệm di truyền, theo dõi hệ vi sinh vật đường ruột và các liệu pháp kéo dài tuổi thọ “giúp cơ thể bạn sẵn sàng cho tương lai” với sự tò mò.
Xu hướng này đang nổi lên khắp Châu Âu, Châu Á và ở một mức độ nào đó là Úc, nơi “mọi người đang sử dụng những hiểu biết khoa học cùng với các biện pháp tự nhiên toàn diện để cân bằng trải nghiệm du lịch chăm sóc sức khỏe của họ”.
KỸ THUẬT CHÁNH NIỆM ĐỂ GIẢM CĂNG THẲNG CÔNG VIỆC

Hãy tránh xa các bậc thầy
Sức khỏe đang gặp vấn đề trên toàn thế giới do thiếu độ tin cậy, với ngày càng nhiều lời kêu gọi đưa ra bằng chứng khoa học về lợi ích của nó.
Sự gia tăng liên tục của những người tự xưng là “chuyên gia sức khỏe” trên mạng xã hội đôi khi lan truyền thông tin sai lệch và trong một số trường hợp còn đưa ra lời khuyên có khả năng gây hại, điều này không hề có ích.
Bennett cho biết khách hàng đang tìm kiếm những lợi ích về sức khỏe đã được chứng minh lâm sàng — những tính năng “cực kỳ quan trọng và cũng cực kỳ khó [xác định]”, bà nhấn mạnh.
Khách hàng của Deloitte đang áp dụng một cách tiếp cận thận trọng đối với các khoản đầu tư của họ, vì “họ muốn đầu tư vào các giải pháp tạo ra tác động và được chứng minh bằng bằng chứng”, bà nói. “Thách thức là thường không có đủ dữ liệu [về sức khỏe] để tạo ra mối liên hệ rõ ràng với kết quả sức khỏe. Cần phải nỗ lực hơn nữa trong lĩnh vực này.”
Tiến sĩ Nadia Zainuddin, nhà nghiên cứu về hành vi và thay đổi xã hội, đồng thời là giảng viên cao cấp của Đại học Wollongong, đã nghiên cứu lĩnh vực chăm sóc sức khỏe trong gần hai thập kỷ. Nhìn chung, bà nhận định rằng “thị trường này không bị quản lý theo bất kỳ cách nào, và không có sự giám sát nào so với các chương trình y tế cấp độ dân số.
“Một số nhà cung cấp có thể đưa ra bằng chứng về cách sản phẩm và dịch vụ của họ có thể cải thiện sức khỏe, nhưng theo quan điểm tiếp thị, thường thì tất cả là về việc định vị.”
Phụ nữ và chương trình nghị sự về sức khỏe
Zainuddin tin rằng việc dân chủ hóa thông tin trên Internet kết hợp với sự phát triển mạnh mẽ của mạng xã hội tác động đến cả hai mặt của vấn đề uy tín trong lĩnh vực chăm sóc sức khỏe.
Mạng xã hội tràn ngập những tuyên bố về sức khỏe được lan truyền tự do và thiếu căn cứ — thường thông qua “các đại sứ thương hiệu và người có sức ảnh hưởng với hồ sơ, nền tảng và lượng người theo dõi đông đảo” nhưng thường không có chuyên môn được xác minh, bà nói. Đồng thời, “người tiêu dùng đã trở nên sáng suốt hơn về các sản phẩm và dịch vụ họ chọn mua”, bà nói thêm.
Phụ nữ là đối tượng chính của các nhà tiếp thị chăm sóc sức khỏe. Zainuddin đưa ra một số lý do. “Thứ nhất, phụ nữ chủ động hơn trong việc quản lý sức khỏe và chăm sóc bản thân khi về già, kiểm tra sức khỏe định kỳ, theo dõi những gì họ đưa vào cơ thể, so với nam giới.
“Phụ nữ cũng là đối tượng mục tiêu dễ tiếp nhận, bởi vì những lo lắng về sức khỏe của họ thường bị bỏ qua trong các hệ thống y tế chính thống. Họ cảm thấy không được lắng nghe”, bà nói. “Ngành công nghiệp chăm sóc sức khỏe đã nhận ra khoảng trống đó và tận dụng nó để phát triển và thành công.”
Kể từ khi Zainuddin nghiên cứu về chủ đề này, khái niệm sức khỏe đã chuyển từ việc duy trì sức khỏe tốt sang việc cải thiện nó. “Đối với nhiều người hiện nay, điều quan trọng là làm thế nào để họ có thể đạt đến cấp độ tiếp theo”, cô nhận xét. Một trong những thay đổi nổi bật mà cô nhận thấy là sự tập trung vào sức khỏe tâm thần.
Việc tăng cường tính bao trùm là rất quan trọng đối với ngành chăm sóc sức khỏe, vốn cho đến nay chủ yếu nhắm vào những người giàu có.
Zainuddin nhìn thấy cơ hội cho các doanh nghiệp chăm sóc sức khỏe chủ động xem xét lại mô hình của mình để cân bằng lợi nhuận với lợi ích xã hội, “ưu tiên con người hơn lợi nhuận bằng cách tích hợp tác động xã hội vào hoạt động cốt lõi của họ và cung cấp sản phẩm cho nhiều đối tượng hơn”.
Cho dù sự hấp dẫn nằm ở lời nói hay kết quả, việc đưa ngành chăm sóc sức khỏe vào trạng thái tốt là mục tiêu có giá trị chung.
Kiểm tra sức khỏe tại nơi làm việc
Giảng viên Ashley Whillans của Trường Kinh doanh Harvard và các chuyên gia trong ngành Jazz Croft và Acacia Parks cho rằng sức khỏe doanh nghiệp là một lĩnh vực được tranh luận sôi nổi, chủ yếu do các giải pháp dễ triển khai như ứng dụng thiền, chatbot và liệu pháp trực tuyến chi phối.
Nghiên cứu cho thấy các biện pháp như vậy là chưa đủ, khi gần 85% nhà tuyển dụng ở Hoa Kỳ cung cấp các chương trình chăm sóc sức khỏe, nhưng tình trạng kiệt sức và các vấn đề về sức khỏe tâm thần vẫn tiếp tục gia tăng .
Các tác giả cho rằng cách tiếp cận tập trung vào từng cá nhân, chẳng hạn như các ứng dụng chăm sóc sức khỏe nói trên, thường không giải quyết được các vấn đề mang tính hệ thống và có thể dẫn đến “sự chăm sóc hời hợt” hoặc “các sáng kiến chăm sóc hời hợt mà người lao động có thể coi là không giải quyết được nguyên nhân gốc rễ”.
Các sáng kiến không giải quyết được nguyên nhân gốc rễ, chẳng hạn như căng thẳng quá mức do khối lượng công việc lớn, có thể khiến nhân viên cảm thấy mất tập trung hơn và sức khỏe tinh thần kém hơn.
Thay vào đó, cần phải chuyển sang “các biện pháp can thiệp mang tính hệ thống rộng hơn, chẳng hạn như quản lý khối lượng công việc và đào tạo phát triển sức khỏe tâm thần cho các nhà lãnh đạo”.
Trong số các giải pháp được đề xuất có giải quyết vấn đề cân bằng giữa công việc và cuộc sống, phát triển những người ủng hộ sức khỏe tâm thần cho nhân viên để hỗ trợ các nhóm rộng hơn và cung cấp phản hồi cho những người ra quyết định, cũng như bổ sung các nhà lãnh đạo cấp cao như giám đốc chăm sóc sức khỏe và giám đốc hạnh phúc.

